17.2.07

NGUYỄN ĐẮC XUÂN - ĐI TÌM LĂNG MỘ VUA QUANG TRUNG

Cảm nghĩ tản mạn, ngoài lề
sau khi đọc cuốn sách rút gọn

“ĐI TÌM LĂNG MỘ VUA QUANG TRUNG”
của nhà nghiên cứu sử học NGUYỄN ĐẮC XUÂN


Trần Xuân An
1.

Khởi từ cảm nhận riêng để đọc sách


Trong những lúc hồi tưởng và suy nghiệm về nỗi đau chia cắt đất nước, vết thương sông Bến Hải trên quê nhà Quảng Trị, tôi không thể không nhớ đến vết thương sông Gianh suốt hai trăm năm Trịnh - Nguyễn phân tranh (1558-1600 - 1789-1802). Trong nỗi đau hậu chiến, hai vết thương lịch sử ấy đã được nghiền ngẫm với nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Và hình ảnh Quang Trung Nguyễn Huệ thời xa xưa ấy cùng hình ảnh Lê Duẩn, cách đây chỉ hơn ba mươi năm, như thể sừng sững hiện ra trước mắt. Không thể khác được, cho dù ở chiến tuyến nào, ai cũng phải thừa nhận sự thật lịch sử với sự nổi bật của hai nhân vật lịch sử ấy.

Trong những năm tháng nghiên cứu, suy tư để viết tiểu thuyết “Mùa hè bên sông”, bất ngờ tôi tìm ra được một cách nhìn mới về Nguyễn Bỉnh Khiêm. Không ai khác, nếu giai thoại “tiên tri” về ông là đúng với sự thật, chính Nguyễn Bỉnh Khiêm là người nhìn ra xu thế chia cắt đất nước và khuyến khích sự chia cắt đau đớn ở sông Gianh, bên này Đèo Ngang: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (Đèo Ngang một dải, vạn đời dung thân); Nguyễn Bỉnh Khiêm còn là người khuyến khích sự chia cắt Cao Bằng cho con cháu nhà Mạc, một “Cao Bằng tuy thiển, khả diên sổ thế” (Cao Bằng tuy mỏng đất, cũng có thể kéo dài được vài đời).

Vết thương 200 năm bắt đầu từ đó, để lịch sử có một Tây Sơn - Nguyễn Huệ.

Nguyễn Huệ hiển hách, lừng lẫy trong sự nghiệp thống nhất hai Đàng, Trong và Ngoài, nhưng bất hạnh với cái chết khá đột ngột, khi đang ở độ tuổi trung niên. Và từ sau cái chết ấy, triều đại do ông xây dựng nên cũng trượt dần xuống dốc, cuối cùng là đổ ập xuống vực thẳm.

Bi kịch lịch sử với nỗi đau hậu chiến lại xảy ra trong vinh quang và công lao hoàn tất sự nghiệp thống nhất của một người khác -- Nguyễn Ánh --, mặc dù Nguyễn Ánh và Nguyễn Huệ là kẻ thù đối địch của nhau. Đàng Ngoài của vua Lê chúa Trịnh thảm bại bị lấn lướt bởi Đàng Trong của nhà Tây Sơn chiến thắng và nhà Nguyễn kế tục chiến thắng. Nếu chiến thắng của Tây Sơn - Nguyễn Huệ, vốn là chiến thắng của lực lượng thứ ba, đánh bại cả Nguyễn lẫn Trịnh, hai lực lượng chia cắt đất nước kia, thì chiến thắng cuối cùng, gom giang sơn về một mối lại là chiến thắng của một trong hai lực lượng chia cắt đất nước. Bi kịch là bởi một trong hai lực lượng đối địch nhau suốt 200 năm lại có một bên chiến thắng. Do đó, về phía nhân dân, trong đó có sĩ phu, ở cả Đàng Ngoài lẫn tại Đàng Trong, đều đâm ra tiếc nuối một nhân vật “hoà giải” -- “hoà giải” hai Đàng bằng cách đảnh đổ cả hai phe chia cắt, Trịnh và Nguyễn.

Lắm khi, tôi cứ mong ước chính Lê Duẩn vừa là Nguyễn Ánh (của một phía) vừa là Nguyễn Huệ (lực lượng thứ ba)… Nhưng sự thật là sự thật, mặc dù Lê Duẩn là người bên này vĩ tuyến 17, bên này sông Bến Hải, là người Miền Nam, sau ngày thống nhất, đã ra sách trắng về bá quyền Trung Quốc, đã chiến thắng sự xâm lược “thăm dò” của Trung Quốc, đánh bại Kh’Mer Đỏ thân Trung Quốc.

Suy nghĩ và viết như vậy là liều lĩnh, khó được tờ báo, nhà xuất bản nào trong nước chấp nhận. Nói liều lĩnh, thì quả đúng là liều lĩnh, thậm chí là liều mạng, nếu cả xã hội cứ buồn rầu chấp nhận viết theo những nếp mòn của văn chương, học thuật. Nhưng cả đất nước đã Đổi mới, thực sự giải phóng tư tưởng và sáng tạo, thì những ý nghĩ vừa viết lại trên kia có gì “liều” đâu! Và thực ra đó cũng chỉ là một trong nhiều ý tưởng của cuốn tiểu thuyết.

Có nhiều nhà nghiên cứu văn học cho rằng chính Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, kẻ sĩ Đàng Ngoài, là hình bóng khúc xạ của Nguyễn Huệ, chói lọi, vụt tắt và để lại niềm tiếc nuối khôn nguôi.

Tôi nghĩ: Chính niềm tiếc nuối ấy, lại góp phần huyền thoại hoá Nguyễn Huệ trong tâm thức nhân dân, kẻ sĩ Đàng Ngoài. Và tôi có thể khẳng quyết: Nếu một lực lượng thứ ba khác chiến thắng, thống nhất đất nước, chứ không phải là hậu duệ nhà Nguyễn -- Nguyễn Ánh -- , cựu thù của Đàng Ngoài, thì chưa chắc Nguyễn Huệ lại có hồi quang rực rỡ như vậy.

Chính nhân dân, sĩ phu Đàng Ngoài (hẳn không ít người trong số họ có người thân đi lính cho chúa Trịnh, bị quân Tây Sơn - Nguyễn Huệ tiêu diệt) lại tưởng tiếc về chính Nguyễn Huệ. Như thế phải chăng là nghịch lí?

“Đại Nam liệt truyện”, trong đó, Quốc sử quán chép việc quân Tây Sơn - Nguyễn Huệ và nhân dân Huế đã đánh bại quân chúa Trịnh - kẻ thù từ Đàng Ngoài vào chiếm đóng thành Phú Xuân, máu ngập cả đường xứ Huế, đỏ lềnh cả sông Hương:

“Phạm Ngô Cầu lại nhút nhát, hay ngờ vực, không hợp với phó tướng Hoàng Đình Thể. [Nguyễn] Nhạc và [Nguyễn] Huệ nhòm ngó [thành Phú Xuân] đã lâu, đến đây biết là có thể lấy được. Trước hết, [Nguyễn Huệ] sai thuật sĩ đem việc hoạ phúc làm cho [Phạm Ngô] Cầu mê hoặc. [Phạm Ngô Cầu] sai tướng sĩ đặt đàn chay lớn, ngày đêm không nghỉ. Quân bộ của [Nguyễn] Huệ qua núi Hải Vân, thủ tướng của họ Trịnh [Đàng Ngoài] là Hoàng Nghĩa Quyền đánh nhau [với quân Tây Sơn], bị chết. Quân thuỷ của [Nguyễn] Huệ từ cửa biển vào. Hai đường đều tiến lại. Cầu nghe tin báo, vội vàng từ đàn [chay tế] chạy về, mưu đem quân để chống. Nhưng quân lính [vì tế đàn dài ngày, thức suốt nhiều đêm,] mỏi mệt đã lâu, đều không có lòng chiến đấu. [Nguyễn] Huệ mật sai [Nguyễn] Hữu Chỉnh đem thư bóc nến [:sáp nến], [mật] ước với [Hoàng] Đình Thể, [rằng Thể] làm nội ứng [cho quân Tây Sơn], mà giả cách đưa lầm đến cho Cầu. Cầu cho Thể với Chỉnh cùng là môn hạ của [Hoàng] Ngũ Phúc [tướng của họ Trịnh], [nay Chỉnh đã theo hàng Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, nhưng hẳn giữa Thể với Chỉnh vẫn còn tình cố cựu, đồng môn thuộc, biết đâu đã móc nối với nhau để cùng quy hàng quân Tây Sơn]. [Như thế, Cầu nghĩ], tất không lợi cho mình. Trong lòng [Phạm Ngô Cầu] ngờ vực, sợ hãi, riêng tính kế đón hàng [quân Tây Sơn] để mong được khỏi chết” “Rồi thì quân Huệ chợt đến, quân thuỷ, quân bộ đánh giáp lại. Cầu sai Thể ra khỏi thành đón đánh. Thành gần bờ sông. Quân ở thuyền của [Nguyễn] Huệ ngửa trông lên chân thành, [thấy thành] cao hơn hai trượng, không thể ngửa lên bắn được. Thể bắn súng lớn chìm một chiếc thuyền. Quân [Nguyễn] Huệ hơi lùi. Chợt khi nước sông lên mạnh, thuyền sát đến thành, [quân Nguyễn Huệ] chiếu vào thành mà bắn. Rồi [Nguyễn Huệ] cho quân bộ vây các cửa thành. Thể cùng hai con [trai] hết sức đánh, chém giết được vài trăm người. Thuốc đạn đều hết, [Thể] sai người xin ở Cầu. Cầu không cho. Thể cả giận, muốn vào thành giết Cầu trước rồi sau mới ra đánh, thì đã thấy trên thành [chính Phạm Ngô Cầu đã cho lính] dựng cờ trắng [đầu hàng quân Tây Sơn] rồi. Thể lại vây quân, đem dao ngắn đánh tiếp, giết được vài mươi người. [Cuối cùng] hai con [trai Thể] đều chết trận. Thể sức kém, cũng tự đâm cổ, chết trên bành voi. [Nguyễn] Huệ đem quân vào thành [Phú Xuân], giết rất dữ. Quân miền Bắc [của họ Trịnh] ở trong thành vài vạn người đều [bị] giết hết cả. Người nào chạy ra ngoài thành, thì dân [Thuận Hoá] tranh nhau giết chết. Đốc thị là Nguyễn Trọng Đương cũng chết trong đám loạn quân. [Phạm Ngô] Cầu [tự] trói tay về sau lưng, xin hàng [Nguyễn Huệ]. [Nguyễn Huệ] đem [Phạm Ngô Cầu] về Quy Nhơn, giết đi””.

(Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam liệt truyện” (ĐNLT.), bản dịch Viện Sử học, tập 2, Nxb. Thuận Hoá, 1993, tr. 504 – 505).

Thế mà đến khi Nguyễn Huệ đột ngột chết, triều đại do Quảng Toản, con trai ông, kéo dài không mấy năm, cũng sụp đổ, sĩ dân Đàng Ngoài lại luyến tiếc Tây Sơn - Nguyễn Huệ. Trong những dòng nước mắt khóc ông, có những giọt lệ của chính con gái vua Lê, một nhà Lê hoàng tộc bị lưu vong trên đất Trung Hoa do chính thanh gươm, vó ngựa Nguyễn Huệ: “Ai tư vãn” của công chúa Lê Ngọc Hân! Nghịch lí, đúng vậy, nhưng quả thực, niềm tiếc nuối Nguyễn Huệ là có thật, là sự thật lịch sử.

Một lẽ nữa, không thể không nhớ đến khi nghĩ về Tây Sơn - Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ đích thực là một anh hùng dân tộc, có công thống nhất đất nước, mặc dù theo một số sử sách, ông có một gốc gác huyết thống lâu đời không thuần Việt, mà thuộc một tộc người nào đó ở Trung Hoa nhiều đời sang cư ngụ ở nước ta. Ông là hậu duệ xa đời của Hồ Quý Ly. Chính điều này, khiến lòng tự hào dân tộc của chúng ta có gì đó cứ lấn cấn, và hình ảnh Nguyễn Huệ trong ta đã ít nhiều bị sứt mẻ, không toàn bích.

Từ những suy nghĩ ấy, tôi đọc cuốn sách nhỏ do nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân rút gọn từ cuốn sách ông đã xuất bản với dạng in giấy: “Đi Tìm Lăng Mộ Vua Quang Trung”, do Viện Sử học Việt Nam xuất bản đúng 15 năm trước (1992).

2.

Đọc sách của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân & nghĩ


Tôi nghĩ, sự nghiệp của Nguyễn Huệ (Quang Trung) rất vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử to lớn, sâu sắc. Tuy vậy, “Đi tìm lăng mộ vua Quang Trung” không phải là một đề tài lớn. Tuy không lớn, nhưng cực kì khó. Đó là một bài toán khó giải. Người giải được nó, tìm ra đáp số, phải là một nhà nghiên cứu kì công và rất cần được sự hỗ trợ của liên ngành, nhất là ngành khảo cổ học.

Nguyễn Đắc Xuân là nhà nghiên cứu sử học kì công đó. Quá trình nghiên cứu của ông cho thấy, từ thư tịch cổ, một vài câu thơ của Ngô Thì Nhậm và nguyên chú của kẻ sĩ Bắc Hà phù Tây Sơn này, một vài câu thơ của Phan Huy Ích (em rể của Ngô Thì Nhậm), từ các chi tiết trong truyện “Nguỵ” Tây Sơn của “Đại Nam chính biên liệt truyện” (sơ tập), Nguyễn Đắc Xuân đã đi tìm lăng mộ vua Quang Trung và hành cung Đan Dương trên đất Phú Xuân (Huế).

Khác với những cuốn sách trước, chuyên về loại sưu tầm “chuyện kể”, “giai thoại”, “cố sự”, rõ ràng “Đi tìm lăng mộ vua Quang Trung” là một công trình nghiên cứu khoa học công phu. Tuy nhiên, như Nguyễn Đắc Xuân đã tâm sự ngay trong những dòng rút gọn: suốt bao nhiêu năm chờ đợi, ông vẫn chưa được ngành khảo cổ của nước ta hỗ trợ để khai quật địa điểm ông đã xác định, đã bước đầu cùng một nhóm nhà nghiên cứu ở Huế khai quật thám sát. Đó là thạc sĩ Phan Thuận An, PGS. TS. Đỗ Bang, bác sĩ Dương Văn Sinh, các ông Lê Đình Liễn (khoa sử Đại học Tổng hợp Huế, nay dạy ĐHDL. Phú Xuân), Phạm Thanh Tùng (báo Bình Trị Thiên, nay làm Trưởng Đại diện báo Tiền Phong tại miền Trung), Võ Xuân Trang (khoa văn Cao đẳng Sư phạm Huế, nay đã qua đời), Nguyễn Hữu Oánh (người chủ khu vực khảo sát), ông Nguyễn Hữu Thứ (một tri thức đã từng nghiên cứu lăng Bà Vành, nay đã qua đời). Nhóm nghiên cứu ấy hỗ trợ ông Nguyễn Đắc Xuân, người tự đề xuất đề tài, làm chủ đề tài, trực tiếp thực hiện quá trình nghiên cứu riêng. Và Nguyễn Đắc Xuân đã đi gần đến đích, sắp tìm đáp số của công trình nghiên cứu.

Thực sự, đáp số vẫn còn dưới lòng đất, nơi cần khai quật kĩ lưỡng với quy mô lớn, và do đó, cũng cần kinh phí lớn.

3. Thoát khỏi sách & lại nghĩ ngợi ngoài lề

Đọc sách tự rút gọn để giới thiệu trên mạng liên thông toàn cầu của Nguyễn Đắc Xuân, tôi khởi đi từ cảm thức riêng của bản thân tôi về Nguyễn Huệ. Khi đọc sách ông, tôi lại lần theo những bước chân và năm tháng kiên trì nghiên cứu của ông, quá trình tìm cho ra lăng mộ vua Quang Trung, và bản thân người đọc là tôi cũng cảm thấy nóng lòng muốn được nhìn một di chỉ nào đó dưới lòng đất có sức thuyết phục hơn. Chẳng lẽ dưới lòng đất không còn một mẩu gốm nào, một mảnh ấn triện nào có ghi rõ dấu chỉ về hành cung Đan Dương và lăng mộ Quang Trung đại đế? Để rồi, khi thoát ra khỏi sách của Nguyễn Đắc Xuân, bên cạnh nỗi nóng lòng về đáp số đó, còn có một thông tin khác, bên lề, khiến tôi nghĩ về một Nguyễn Huệ và phong trào Tây Sơn: nho giáo cực đoan? Không cực đoan thế nào được khi dám xây hành cung trên nền chùa cũ, nơi trang nghiêm thờ Phật, giữa một đất nước vốn có truyền thống “tam giáo đồng quy”?

Phải nêu ra ngoài lề một dấu hỏi, tôi nghĩ vậy. Vâng, chỉ là cảm nghĩ ngoài lề thôi, bởi đề tài của cuốn sách là “Đi tìm lăng mộ vua Quang Trung” chứ không phải sự nghiệp, vai trò của ông, niềm luyến tiếc và nỗi lấn cấn về Nguyễn Huệ ở phương diện huyết thống cũng như tư tưởng - tín ngưỡng của ông.

Mấy ngày cuối năm Bính tuất HB6-7 này, đọc sách của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, lại được trao đổi đôi dòng với ông qua vài điện thư, tôi cũng chợt nhớ đến một bài thơ tôi viết sau chuyến đi Hà Nội đầu tiên trong đời. Xin kính chép lại tặng nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân trước khi dẫn những đường nối kết (links) đến với nhiều người đọc quý mến, thân ái của trang web miễn phí này, được xây dựng trên cơ sở chủ quản (host) của Google.

SÁNG THÁNG GIÊNG Ở GÒ ĐỐNG ĐA

1
lặng mình trước tượng đài Quang Trung
gò Đống Đa dưới chân tôi!
Nắng tỏa
từ quản bút lưng trâu và chú bé Hồ Thơm (1)
trên đèo núi chập chùng
từ thanh gươm Nguyễn Huệ Tây Sơn
nghe sử thi thắp tim mình chói lóa

2
ông cha vào khai khẩn đất phương nam
mãi xót lòng nỗi cằn cỗi Nghệ An
phải đổi họ lấy chút yên thân nơi xứ lạ
vua, và hai chúa hai Đàng
Đất nước nát tan
đành dựng cờ đào trên rối bời tàn phá
với thanh gươm nghĩa cả

3
lần đầu tiên ra đây đến ngồi trên ghế đá
tôi ngẩng mặt trên bàn đá
đọc lời hịch hào hùng chói ngời dân dã
chạm lên tảng đá
sáng rọi nghìn sau
ngước nhìn tượng đài Ông cao vút trời sâu
mắt Quang Trung
nhìn tận Cửu Long
- lũ lũ đàn đàn quân Xiêm tan rã - sạch làu!
mắt Quang Trung
vượt qua gò đất chiến công
- một núi xác Tàu -
tầm kế sách vượt bao triều vua vương giả

4
sao để mãi hồn dân tộc bao đời
đành sáng ngời trong văn tự lạ!
bắt con Trời Càn Long đầu gật mày chau
Quang Trung lấy lại Lưỡng Quảng nghìn xưa
bằng hào quang và một cỗ cau trầu!
(ôi lịch sử loài người!
những dân tộc
những quốc gia
dồn đuổi nuốt tươi nhau!)

5
thực dân Phương Tây từ lâu
dò la Bắc - Nam
run rẩy đưa cao thập giá
run rẩy đưa cao nhánh lá (2)
kèm bản đồ
giấu trong hàng hóa:
thư về nước, ngẩn ngơ, kinh hoàng
phơi lòng dạ!
ngợi ca Át-ti-la Phương Nam (3)
nét chữ bần thần nghiêng ngả
nguyện cầu!

6
danh sĩ Bắc Hà tâm phục đến chầu (4)
Hoàng đế Phương Nam,
áo vải,
da sạm nâu
rất mưu lược
sao hiền hòa chân thành quá
rất bản lĩnh
và ân tình đến lạ

7
lặng mình trước tượng đài Quang Trung
hiểu tuổi sống của thiên tài Tây Sơn
thắp sức sống nhân dân
sáng bừng vận nước
nhưng “Ai tư vãn” muôn đời còn đau! (5)
đau đến muôn trùng!

8
tôi ngồi trên ghế đục ra từ núi đá
ngẩng mặt trên bàn đục ra từ núi đá
trên xác thù bạo ngược
gò Đống Đa
ngập nắng sáng, tháng giêng
lá xanh, xanh mướt
thầm hát câu thơ về người áo vải anh hùng
cảm khái dân tộc mình dựng lên tầm cao Tổ quốc
phải bằng sông máu núi xương
và gò xác giặc điên khùng!
ôi, gò xác này chỉ là biểu trưng
một tầm cao, cao thẳm, không biết lấy gì đo được!

9
đâu rồi đền miếu,
bát hương thuở trước
đã thắng giặc bằng căm thù
và bằng cả bao dung!
hương khói
tỏa lên dăm nét chữ chỉ đích danh:
lũ rối sắt máu, từ tim đen Càn Long
luôn chờ cớ xua quân cướp nước!
ôi lịch sử
nhân và nghĩa
cho vô cùng!

10
Quang Trung
người dựng mùa xuân
trên nỗi tan hoang hai miền Tổ quốc
bằng muôn triệu kiếm cung
trổ lên từ đồng Nam ruộng Bắc
bằng thanh gươm lóe thép Tây Sơn
bằng mùa mai thắm tươi ra Bắc
bằng mùa đào sáng bừng vào Nam
mùa xuân nối liền
vết thương sông Gianh
hai trăm năm
đau thắt Miền Trung

11
Hồ Thơm: Nguyễn Huệ: Quang Trung!
từ Nghệ An cỗi cằn
ông cha vào phương nam khai hoang
cánh chim Phượng Hoàng
mơ về đậu đỉnh xanh núi Quyết
chỗ đòn gánh kê vai gánh trĩu mùa vàng
chín rạn và bầm huyết
phải chăng
Trung Đô (6)
chiến lược nối liền Nam - Bắc hai Đàng?
và phải chăng
lệch tình ruột thịt cố hương nên nghiêng đổ hết?

12
Quang Trung
chỉ là lực biến dịch
cho sông Gianh thôi gào thét?
để vận nước nối liền bằng thanh gươm Gia Long
cựu thần Đàng Ngoài cuồng trung giẫy chết
Nguyễn Du khóc Kiều đứt ruột đắng lòng
qua Đèo Ngang, buổi nắng tà uá rét
"quốc quốc gia gia" hoài Lê thê thiết
Bà huyện Thanh Quan
tự đục tên khỏi gia phả nhà chồng? (7) (7b)
ngỡ mình là Hán tộc Hồng Tú Toàn,
Cao Bá Quát huà theo lũ châu chấu điên ngông (8)
quyển thơ thiên tài máu bết!
Phê-rô Tạ Văn Phụng (9)
mạo danh con vua Đa-vít Viễn Đông
Kinh Thánh rao giảng ngược,
ngược ngôi sao Na-za-rét (10)
"triều Nguyễn là đế quốc La Mã bên sông Hương!"
- ngược lời,
lâu la hú hét -
máu chảy ngược sông Hồng!
ôi, Quang Trung!
Quang Trung!
chỉ là lực biến dịch
cho sông Gianh thôi gào thét?
để Đàng Ngoài cứ mãi hoài Lê
với nỗi cuồng trung!

13
từ Hà Nội mùa xuân
ngậm ngùi tưởng tiếc
ngồi trên gò Đống Đa
trên đỉnh cao chiến công Quang Trung
nắng hồng xanh non cỏ cây tháng Tết
tôi ngước nhìn Quang Trung
Quang Trung, Quang Trung, lực biến dịch
loé chớp
lành lặn vết thương sông Gianh
nối liền non sông nối liền biển biếc
trước thanh gươm vó ngựa Gia Long
Đàng Ngoài phải chăng tự dựng mùa đông?
mùa đông lan vào Đàng Trong
trăm năm thực dân tàu đồng súng thép...
Giê-su vô can, mười chín thế kỉ Người đã chết
sao giáo đường sáng trưng
thắp bằng máu mỡ Việt?
Đàng Ngoài - Đàng Trong
bỗng chung một nỗi lạnh tê rỉ rét...

14
từ Hà Nội mùa xuân
ngậm ngùi tưởng tiếc
Quang Trung, Quang Trung
tôi chợt hiểu chút máu thái thú bao đời trong Ông
mãi vỡ mạch muôn đời trên trang sử chép
vết thương Bến Hải đã xa, xa lắc, trập trùng
tôi viết từ uẩn khúc Miền Nam,
uẩn khúc thuyền nhân:
"nội - nội phân tranh
ngoại - ngoại phân tranh"
lịch sử viết thẳng hay uốn cong?
và sao vang ra tận đây
- Hà Nội mùa xuân -
những tiếng khóc ròng?
vết thương Bến Hải
thiếu vắng một Quang Trung?
Quảng Trị quê hương
đau thương, hào hùng, quyết liệt
sao vang ra đây
câu hỏi nghẹn ngào róng riết
thiên tài Lê Duẩn là Quang Trung?
ý chí kiên cường Lê Duẩn là Gia Long? (11)
lịch sử đã lặp lại chăng?
lịch sử đã hoán vị hai Đàng?
đâu rồi bao tấm lòng đau niềm chung da diết
ai đó còn thao thức, khắc khoải, chờ mong
(ta chờ mong trái tim ta rất Việt!) ?
sông Gianh - Bến Hải, nắng nỏ, bão bùng
nỗi niềm đứt ruột Miền Trung
vết thương chưa thôi gào thét?

15
ra thăm Hà Nội, ngắm hoa đào mùa Tết
tôi mỉm cười, bâng khuâng.


Hà Nội, 05.03.1997
Tp. HCM., 20.03.1997 & 02.2004
Trần Xuân An

Xin vui lòng xem các chú thích của bài thơ ở địa chỉ:
http://www.tranxuanantieuluan.blogspot.com/


4.

Dẫn links


Trân trọng dẫn những đường nối kết đến cuốn sách rút gọn, “Đi tìm lăng mộ vua Quang Trung”, của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân từ “Giao Điểm online”:

LĂNG ĐAN DƯƠNG
CỦA VUA QUANG TRUNG Ở ĐÂU ?
Xin góp một câu trả lời
Bút ký lịch sử của Nguyễn Đắc Xuân
a
Thư gởi Đọc giả và các Nhà nghiên cứu Việt Nam.
http://giaodiemonline.com/2007/feb/quangtrung/loimodau.htm
b
Kỳ 1 : Cung điện Đan Dương thời Quang Trung.
http://giaodiemonline.com/2007/feb/quangtrung/ky1.htm
c
Kỳ 2 : Lăng Đan Dương cùng ở phía Nam Kinh thành Huế và gần chùa Thiền Lâm.
http://giaodiemonline.com/2007/feb/quangtrung/ky2.htm
d
Kỳ 3 : Chùa Thiền Lâm chồng chất những bí ẩn
http://giaodiemonline.com/2007/feb/quangtrung/ky3.htm
e
Kỳ 4 : Phủ Dương Xuân mất tích !
http://giaodiemonline.com/2007/feb/quangtrung/ky4.htm
g
Kỳ 5 : Đi tìm dấu tích Phủ Dương Xuân
http://giaodiemonline.com/2007/feb/quangtrung/ky5.htm
h
Kỳ cuối : Phủ Dương Xuân tiền thân của Cung điện Đan Dương
http://giaodiemonline.com/2007/feb/quangtrung/ky6.htm
k
Phụ lục : Những biểu hiện của lăng mộ vua Quang Trung bị quật phá
http://giaodiemonline.com/2007/feb/quangtrung/kyphuluc.htm

Trân trọng giới thiệu đến quý người đọc kính mến và thân ái những đường nối kết (links) trên web Giao Lưu này. Kính chúc nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân sớm có điều kiện tài chính để tái bản cuốn sách “Đi tìm lăng mộ vua Quang Trung”, dựng phim tư liệu, dịch ra tiếng Anh như ước nuốn của ông. Hi vọng sưu hợp tuyển sẽ có dịp lưu trữ bản hoàn chỉnh, đầy đủ nhất của cuốn sách ấy.

Khoảng từ 7 giờ đến 11 giờ 48’,
ngày 28 tháng chạp Bính tuất HB6-7,
áp Tết nguyên đán Đinh Hợi HB7
(15-02 HB7 [2007]),
tại TP. HCM.

Trần Xuân An

Xem thêm
(bổ sung: 21 giờ 41', cùng ngày):

1. Những bí ẩn về lăng mộ Hoàng đế Quang Trung
sắp được giải mã?
(Q.T. -- báo Thanh Niên)
13h40, 26/01/2006
http://www.cinet.gov.vn/detail.aspx?source=5&catid=76&newsid=5781

2. Thêm một giả thuyết mới về mộ vua Quang Trung
(Giao Hưởng -- báo Thanh Niên)
22:47:40, 31/07/2006
http://www.thanhnien.com.vn/Vanhoa/2006/7/31/157346.tno

3. Hé mở hướng đi tìm lăng mộ vua Quang Trung?
(Báo Tuổi Trẻ: Theo Thanh niên - Lao động - Nhân Dân)
Thứ Sáu, 10/02/2006, 23:01 (GMT+7)
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=122371&ChannelID=10

4. Nhà vật lý đi tìm mộ vua Quang Trung
(Thái Lộc - Hồ Sĩ Bình -- báo Tuổi Trẻ)
Thứ Năm, 22/06/2006, 06:39 (GMT+7)
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=145733&ChannelID=89

___________________________


LỊCH CHỈNH SỬA:
Đưa lên web: 15-02 HB7 (2007)

16 & 17-02 HB7: chỉnh lại một vài lỗi trình bày bài trên trang web
(không chỉnh sửa nội dung bài viết)




.